Thứ Năm, 8 tháng 8, 2013

Phiếm luận: HẠT NGỌC LAM ĐIỀN...

                         HẠT NGỌC LAM ĐIỀN
               CỦA NGUYỄN DU
                   (Tản mạn chuyện ngữ nghĩa)

Truyện Kiều của Nguyễn Du, các câu từ 3199 đến câu 3204 tả tiếng đàn của Thúy Kiều khi gặp lại Kim trọng:

        "Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh?
        Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên?
        Trong sao châu rỏ duyềnh quyên,
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông"

(Xem: TRuyện Kiều-Nguyễn Du. Văn bản cơ sở và chú giải. Đào Duy Anh. NXB Văn học, H. 1979, tr.171)

Ở phần chú giải trang 286 sách trên, chú rằng: "Bốn câu 3200, 3202, 3203, 3204 là do phỏng dịch bốn câu thơ trong bài "Cầm sắt" của Lý Thương Ẩn đời Đường:

        "Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp,
        Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên.
        Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,
        Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên"

Trong "Từ điển truyện Kiều" của Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội ấn hành năm 1974, trang 211, mục từ "Lam Điền" được giải nghĩa:
"Lam Điền - tên huyện, tên núi trong tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, có tiếng là sản xuất ngọc quý"

Để hiểu thêm mối liên quan giữa điển tích này với mấy câu Kiều của Nguyễn Du kể trên, ta mở xem "Đường thi", NXB Hội nhà văn tái bản năm 2003, Học giả Trần Trọng Kim chú giải bài "Cầm sắt" của Lý Thương Ẩn và nói rõ:
"Nguyễn Tố Như tiên sinh, tác giả truyện Thúy Kiều lấy ý bốn câu tam tứ, ngũ lục mà dịch ra sáu câu lục bát sau này:
       
        Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh.
        Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên.
        Trong sao châu rỏ duyềnh quyên,
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông.

"Điển cố văn học", do Đinh Gia Khánh chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 1977, tr. 266, giải thích từ Lam Điền như sau:
"Lam Điền - tên một dãy núi ở phía đông huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, nơi có ngọc quý, do đó lại có tên là Ngọc Sơn (Núi Ngọc).

Do đó, bốn câu thơ đã trích dẫn của Lý Thương Ẩn và được coi là Nguyễn Du đã phóng tác thành sáu câu lục bát trong truyện Kiều, như đã nói trên, nên hiểu là:

Buổi sớm Trang Chu tỉnh mộng chưa dứt khỏi cơn mơ bươm bướm
                                       (mình hóa ra bướm hay bướm hóa ra mình)
Vọng Đế (vua Thục) là Đỗ Vũ bỏ nước rồi chết hóa ra chim cuốc
                                                                                        (đỗ quyên)
Biển xanh, đêm trăng sáng, những viên trân châu sang lấp lánh như
                                                                     những giọt lệ người đẹp
 Lam Điền nắng lên, mặt trời ấm áp khiến núi Ngọc tỏa mù sương.

Vì vậy, tách riêng câu thơ của Lý Thương Ẩn "Lam Điền nhật noãn, ngọc sinh yên", tuy cũng nhắc đến ngọc, nhưng chỉ có thể hiểu là núi Ngọc tỏa sương khói, mây mù trong ngày nắng ấm ở Lam Điền.

Còn ngọc Lam Điền của Nguyễn Du trong truyện Kiều lại nói rõ: "Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông" thì chính là nhờ vốn tri thức uyên thâm, kiến văn quảng bác, với tài hoa sử dụng ngôn ngữ thành thục, mà tác giả truyện Kiều đã "chế tác" nên hạt ngọc, tuy mượn tên Lam Điền, nhưng mới tinh khôi, chỉ vừa mới đông, còn ấm tay người.

Từ núi Ngọc mờ sương khói Lam Điền trong thơ Lý Thương Ẩn đời Đường, sang hạt ngọc Lam Điền mới đông trong truyện Kiều của Nguyễn Du là sự chuyển hóa tài tình, bất ngờ, đầy sáng tạo, nhuần nhuyễn và hết sức độc đáo của ngữ nghĩa.

Hạt ngọc Lam Điền trong truyện Kiều, do đó là vật báu từ ngữ, là hạt ngọc quý của riêng Nguyễn Du tạo nên, sẽ sáng lấp lánh trong áng thơ tuyệt vời của truyện Kiều và trong ngôn ngữ Việt mãi mãi.

                                                                 1/3-2012
                                                             TRẦN HÙNG 
                                                            (Trần kiều Am)         

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét